Tin tức
Hotline: (84 04) 382 49874      
Hỗ trợ online: Chát với hỗ trợ Online - Yahoo Chát với hỗ trợ Online - Skype  Liên Hệ  Tiếng Anh
http://techmartvietnam.vn/Portals/_default/Skins/NVPortal/Images/xuctien.jpg
http://techmartvietnam.vn/Portals/_default/Skins/NVPortal/Images/xuctien.jpg

Các nhà khoa học lần đầu tiên tìm ra sự phát triển của khái niệm mới trong não bộ 3:12 PM,7/7/2015

Lần đầu tiên các nhà khoa học đã đưa ra tài liệu về sự hình thành khái niệm mới bên trong não bộ và sự hình thành này diễn ra ở những vùng não tương tự đối với tất cả mọi người. Các kết quả từ nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, có thể dùng cách tiếp cận tương tự để nhận biết tình trạng 'mất' kiến thức do những rối loạn khác nhau như bệnh mất trí nhớ hoặc bệnh Alzheimer hoặc do chấn thương sọ não. Việc mất đi khái niệm trong não có thể do sự đảo ngược quy trình mà nghiên cứu đã quan sát được.

Trường Đại học Carnegie Mellon (CMU) đã cải tiến công nghệ hình ảnh não giúp mã hóa các đối tượng cụ thể trong não như một ngôi nhà hay một quả chuối, ai đó đang suy nghĩ từ tín hiệu kích hoạt não.

Hiện nay, các nhà khoa học CMU đang áp dụng kiến thức về biểu diễn thần kinh đối với các khái niệm quen thuộc bằng việc dạy cho con người những khái niệm mới và theo dõi sự phát triển của những biểu diễn thần kinh mới. Được xuất bản trong Human Brain Mapping, lần đầu tiên các nhà khoa học đã cung cấp tài liệu về sự hình thành khái niệm mới học bên trong não bộ và chỉ ra rằng sự hình thành này diễn ra ở những vùng não tương tự đối với tất cả mọi người.

Nghiên cứu mới này kết hợp khoa học não bộ với đổi mới giảng dạy, hai trong số những sáng kiến của đại học Carnegie Mellon - Sáng kiến BrainHub tập trung vào cấu trúc và hoạt động của bộ não làm phát sinh những hành vi phức tạp, và Sáng kiến Simon, nhằm mục đích nâng cao các kết quả học tập của sinh viên bằng cách tìm hiểu những thế kỷ của nghiên cứu khoa học kiến thức.

Marcel Just, một nhà thần kinh học hàng đầu đã lấy ví dụ về olinguito, một loài động vật ăn thịt mới được xác định, nó chủ yếu ăn trái cây và sống trên các ngọn cây ở rừng mưa nhiệt đới, nghiên cứu này được Viện Smithsonian công bố năm 2013, ông coi đây là một loại khái niệm mới mà con người đã học.

Just cho biết, hàng triệu người đã đọc thông tin về loài olinguito và qua đó đã làm thay đổi vĩnh viễn bộ não của họ. Nghiên cứu này được thực hiện để xác minh một cách chính xác quá trình này tại thời điểm trong phòng thí nghiệm. Khi con người hiểu rằng loài olinguito chủ yếu ăn trái cây thay vì ăn thịt thì vùng nếp cuộn ở não trái của họ và một số vùng khác - đã lưu giữ thông tin mới theo mã riêng của chúng. Theo Just, kiến thức mới đã thu được từ công bố của Smithsonian được mã hóa ở những vùng não tương tự của những người được học về thông tin này, bởi vì tất cả các bộ não hình thành đều sử dụng hệ thống lưu giữ thông tin giống nhau.

Trong một nghiên cứu, Andrew Bauer, nghiên cứu sinh ngành tâm lý học và Just đã giảng dạy cho 16 thí sinh tham gia nghiên cứu về chế độ ăn uống và nơi cư trú của các loài động vật đã tuyệt chủng nhằm theo dõi sự phát triển những biểu diễn thần kinh về tám khái niệm động vật mới trong não của các thí sinh tham gia.

Dựa trên những phát hiện trước đây, nhóm nghiên cứu đã nắm được nơi kiến thức mới xuất hiện trong não bộ của các thí sinh tham gia nghiên cứu. Thông tin về nhà ở và chế độ ăn uống tập trung tại những vùng não riêng phổ biến ở tất cả mọi người.

Trong khóa học kéo dài một giờ đồng hồ, các thí sinh tham gia nghiên cứu đã có buổi phụ đạo nhỏ về chế độ ăn uống và nơi cư trú của các loài động vật, đồng thời các nhà khoa học đã sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI) để giám sát sự xuất hiện của các khái niệm trong não của những người tham gia. Khi những đặc tính mới được dạy, mức độ kích hoạt tại những vùng thông tin về ăn uống và nơi cư trú trong não đã thay đổi.

Một kết quả quan trọng thu được sau buổi phụ đạo về động vật học là mỗi khái niệm động vật đã phát triển một tín hiệu kích hoạt đặc trưng riêng. Kết quả này có thể giúp cho chương trình máy tính xác định được mỗi thí sinh tham gia nghiên cứu đang nghĩ gì về tám khái niệm động vật tại một thời điểm nhất định. Thực tế, chương trình đang đọc thông tin từ bộ não của họ khi họ chờ đợi một suy nghĩ hoàn toàn mới.

Mặc dù mỗi loài động vật có những tín hiệu kích hoạt riêng, tuy nhiên những động vật có các đặc tính tương tự (như môi trường sống) thì những tín hiệu kích hoạt cũng tương tự nhau. Đó là sự tương đồng giữa các đặc tính của hai loài động vật dẫn đến sự tương đồng giữa những tín hiệu kích hoạt của chúng. Phát hiện này chỉ ra rằng, những tín hiệu kích hoạt không chỉ là những mô hình giả định, mà chúng có ý nghĩa và có thể phiên dịch.

Theo Just, tín hiệu kích hoạt của một khái niệm là sự kết hợp của nhiều loại kiến thức khác nhau mà một người lưu giữ được và mỗi loại kiến thức được lưu giữ ở những vùng đặc trưng riêng.

Một kết quả quan trọng nữa đó là mỗi đặc tính của các loài động vật được học vẫn được lưu giữ trong não, thậm chí sau khi những đặc tính khác của động vật tiếp tục được học. Phát hiện này cho thấy khả năng lưu giữ thông tin mà chúng ta học  tương đối lớn.

Bauer, tác giả chính của nghiên cứu cho biết, mỗi khi chúng ta học được điều gì, chúng ta thay đổi vĩnh viễn bộ não của chúng ta theo một cách có hệ thống. Điều thú vị của nghiên cứu này đó là những thông tin về những động vật tuyệt chủng được khắc sâu vào những vị trí được dự đoán trong hệ thống lưu giữ thông tin của não bộ.

Just tin rằng, nghiên cứu này cung cấp nền tảng cho các nhà nghiên cứu não bộ theo dõi khái niệm mới đi vào não như thế nào thông qua các từ ngữ và hình ảnh minh họa được sử dụng trong giảng dạy, đoán trước khả năng nhằm đánh giá sự tiến bộ trong việc học một khái niệm phức tạp giống như một bài tập vật lý ở trường trung học. Những phân tích mô hình fMRI có thể giúp chuẩn đoán những khía cạnh của một khái niệm mà các sinh viên hiểu sai (hoặc thiếu), theo cách đó sẽ giúp cho buổi giảng dạy lần sau hiệu quả hơn.

Các kết quả từ nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, có thể sử dụng cách tiếp cận tương tự để hiểu tình trạng 'mất' kiến thức do những rối loạn não bộ khác nhau như bệnh mất trí nhớ hoặc bệnh Alzheimer hoặc chấn thương sọ não. Việc mất đi một khái niệm trong não có thể do đảo ngược quy trình mà nghiên cứu đã quan sát được.

Nguồn: NASATI, ngày 2/7/2015.

Send Print  Back
The news brought
Mở cánh cửa xuất khẩu vaccine “made in Việt Nam” 7/7/2015
Tìm hiểu nguyên nhân gây đau mắt khi bơi 7/7/2015
Học sinh trung học phát minh ra bao cao su đổi màu khi phát hiện bệnh 7/7/2015
Chip mô phỏng nội tạng của viện Wyss đoạt giải Design of the Year 2015 6/30/2015
Hợp chất chiết xuất từ hoa mộc lan có thể trị ung thư đầu và cổ 6/30/2015
Khoa học có thể đọc suy nghĩ con người bằng giấy trắng mực đen 6/30/2015
Nghiên cứu bệnh lậu phát hiện ra yếu tố kích hoạt hệ thống miễn dịch mới 6/29/2015
Lần đầu thực hiện thành công ca mổ tim cho trẻ em bằng robot 6/29/2015
Nuôi cấy thành công tế bào thần kinh từ máu tươi 6/29/2015
Chip đa năng trong lĩnh vực y tế 'made in Việt Nam' 6/19/2015
Kích thích xúc giác bằng tia lade 6/19/2015
Bệnh viện 108: Chẩn đoán, phát hiện virus MERS-CoV trong 3-4 giờ 6/11/2015
Mỹ: Phát triển thành công phương pháp xét nghiệm máu mới 6/8/2015
ỹ tìm ra cách tái tạo tay, chân cho người cụt 6/8/2015
Chống ung thư hiệu quả với cà chua đen 6/1/2015













Trang chủ   |    CN/TB chào bán   |    CN/TB tìm mua   |    Tin tức   |    Giới thiệu   |    Liên hệ Register   |    Login   
Số lượt truy cập: 123569217 Bản quyền thuộc Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
Địa chỉ trụ sở chính: 24 Lý Thường Kiệt - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Tel: (84-04) 38249874 - 39342945 | Fax: (08-04) 38249874 | Email: techmart@vista.gov.vn