Đối chiếu chẩn đoán của siêu âm nội soi thực quản với chụp cắt lớp vi tính lồng ngực trong ung thư thực quản giai đoạn tiến triển.
3:59 CH,22/06/2017

Nghiên cứu do các tác giả Vũ Hồng Thăng – Đại học Y Hà Nội, Khoa nội 4 bệnh viện K và Võ Văn Xuân – Khoa xạ 4 Bệnh viện K thực hiện nhằm đánh giá tổn thương tại vùng của 81 trường hợp ung thư thực quản nguyên phát giai đoạn tiến triển bằng siêu âm nội soi thực quản và bằng chụp cắt lớp vi tính lồng ngực.

Ung thư thực quản (UTTQ) là căn bệnh phổ biến nhất trên thế giới và đứng thứ 3 trong các ung thư đường tiêu hóa sau ung thư đại trực tràng và dạ dày. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc UTTQ tại Hà Nội ở nam là 8,7/100.000 và ở nữ là 1,7/100000 dân, bệnh xếp thứ 5 trong 10 bệnh ung thư phổ biến. Nam giới mắc nhiều hơn nữ và tuổi thường gặp từ 50-60 tuổi. Các biểu hiện lâm sàng hay gặp là nuốt nghẹn, đau ngực, gầy sút cân. Khi có các dấu hiệu này bệnh thường ở giai đoạn muộn và kết quả điều trị thấp, bệnh ở giai đoạn muộn chiếm tỷ lệ 60,6%. Mặc dự có những tiến bộ rất lớn trong quá trình phát hiện sớm, chẩn đoán bệnh, cũng như tiến bộ trong điều trị nhưng tiên lượng UTTQ cũng rất xấu.

Theo nghiên cứu của châu Âu tỷ lệ sống 5 năm là 5% trong những năm 78-80, 9% năm 87-89, 10% năm 91-2002. Với giai đoạn tiến triển, điều trị phối hợp giữa xạ trị và hóa chất thay thế cho phẫu thuật. Các biện pháp chẩn đoán hình ảnh cho phép xác định giai đoạn để có lựa chọn biện pháp điều trị ngày càng chính xác hơn. Tại Việt Nam, một số nghiên cứu về bệnh ung khía cạnh chẩn đoán và kết quả điều trị bệnh thư thực quản. Các nghiên cứu trước đây thường tập trung phân tích giá trị chẩn đoán của phương pháp chẩn đoán hình ảnh, nội soi với ung thư ở giai đoạn mổ được. Tuy nhiên, mỗi phương pháp đều có tỷ lệ chính xác nhất định. Siêu âm nội soi (SANS) không được sử dụng phổ biến trong các sơ sở điều trị ung thư như chụp cắt lớp vi tính (CLVT). Hơn thế nữa, sự phù hợp đánh giá giai đoạn giữa hai biện pháp này là câu hỏi cần đặt ra.

Các bệnh nhân được chẩn đoán xác định bằng giải phẫu bệnh là UTTQ giai đoạn III, IV được điều trị tại bệnh viện K. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân các bệnh nhân ung thư thực quản ngực và bụng giai đoạn III, IV theo phân loại của hiệp hội chống ung thư quốc tế 2004 (UICC 2004). Các bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị lần đầu tại bệnh viện K. Thể trạng chung cũng tốt: Chỉ số toàn trạng từ 0-2 theo thang điểm ECOG để can thiệp chẩn đoán, không mắc bệnh ung thư nào khác.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, triệu chứng thường gặp nhất là nuốt nghẹn thức ăn đặc, chiếm 91,4%. Vị trí tổn thương thường gặp nhất là đoạn 1/3 giữa thực quản với tỷ lệ 72,8%, hình ảnh tổn thương thường gặp là sùi chiếm 37,8% và trên hai tổn thương kết hợp (sùi loét, sùi thâm nhiễm hay rỉ máu) chiếm 52,4%.  Chỉ số tương đồng (kappa) đánh giá giai đoạn hạch giữa siêu âm nội soi và chụp cắt lớp vi tính mức độ vừa (K=0,47).

Nguồn: Tạp chí y học thực hành

Bản quyền thuộc Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
Địa chỉ trụ sở chính: 24 Lý Thường Kiệt - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Tel: (84-04) 38249874 - 39342945 | Fax: (08-04) 38249874 | Email: techmart@vista.gov.vn