Mô tả quy trình CN/TB:
Chò chỉ là loài phân bố hẹp, thường mọc ở nơi có độ cao dưới 700m, nơi có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến sét nặng, đất có phản ứng hơi chua (<5). Các lâm phần điều tra có 864 - 943 cá thể của 49 - 59 loài, trong đó Chò chỉ chiếm 2,6% – 4,5%, đạt 3,2% tổng G; 3,2 - 5,5% tổng V. Là loài có số cá thể tái sinh thấp (chiếm 2,5% – 2,7%). Bón N theo công thức 10 (0,29g NH4NO3 + 0,43g NaH2PO4.2H2O + 0,08g KCl /bầu); bón P theo công thức 5 (0,29g NH4NO3 + 0,87g NaH2PO4.2H2O + 0,08g KCl/bầu)); bón K theo công thức 9 (0,29g NH4NO3 + 0,43g NaH2PO4.2H2O + 0,23g KCl/bầu) cho sinh trưởng và tốc độ sinh trưởng tương đối cao nhất.
Ở giai đoạn vườn ươm cây thích hợp nhất với cường độ chiếu sáng là 50%, các chỉ tiêu này giảm dần khi độ chiếu sáng ở các mức 75%, 25% và 100%. Sau 4 tháng, cây Chò chỉ đã có biểu hiện trạng thái héo không phục hồi được ở độ ẩm 5,11%. Cây con có biểu hiện rõ rệt về sinh trưởng và hình thái khi thiếu 1 trong 3 nguyên tố N, P, K, sử dụng NPK theo công thức N1P2K1 (1,5g N + 3,0g P + 1,5g K) là tốt nhất cho sinh trưởng và biểu hiện về hình thái. Tỷ lệ nảy mầm của hạt = 45%. Tỷ lệ sống của cây sau khi ra bầu 1 tháng đạt >80%, có thể tạo giống Chò chỉ bằng giâm hom với các chất kích thích sinh trưởng là IBA và IAA nồng độ 0,5 – 1%, cây con xuất vườn tốt nhất khi đạt 12 – 15 tháng tuổi; đường kính cổ rễ: 0,5 – 0,6cm; chiều cao bình quân: 60 – 80cm; cây đã hoá gỗ hoàn toàn. Trồng Chò chỉ thuần loài hoặc hỗn giao với Sấu/Re (N=540) đồng thời bón lót 30g N + 120g P + 90g K và bón thúc 200g NPK tổng hợp sẽ mang lại hiệu quả cao nhất khi trồng ở nơi có độ ẩm cao.
|